Một số ý kiến về Ngày truyền thống của Hội đồng nhân dân và các cơ quan của HĐND các cấp

Thứ năm - 07/08/2025 17:31 86 0
Bất cứ cơ quan, tổ chức, đơn vị nào cũng có quá trình hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của cả hệ thống chính trị và sự phát triển của đất nước. Việc tìm hiểu, nắm bắt về lịch sử ra đời và phát triển của ngành, cơ quan, tổ chức mà mình đang công tác giúp cho chúng ta hiểu thêm, trân trọng và tự hào về công việc đang làm, góp phần củng cố, nâng cao tinh thần, trách nhiệm, chung sức, đồng lòng không ngừng xây dựng cơ quan, tổ chức ngày càng phát triển.
img 0664


Để thực hiện quản lý nhà nước có hiệu quả, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải chọn giải pháp chia đất nước thành các đơn vị hành chính và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở các cấp đó, gọi là chính quyền địa phương. Ở nước ta cũng vậy, cả nước được chia thành các đơn vị hành chính đồng thời tổ chức chính quyền địa phương theo đơn vị hành chính các cấp tỉnh, huyện, xã (nay là cấp tỉnh và cấp xã). Trong thiết chế chính quyền địa phương có HĐND và UBND, trong đó HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND đã ban hành, giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tại địa phương. Từ khi thành lập nước đến nay, thiết chế HĐND các cấp ngày càng được kiện toàn, phát triển và hoàn thiện theo lịch sử phát triển của nhà nước và sự phát triển của đời sống xã hội.
   
Sau khi giành được chính quyền trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 22/11/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 63 thiết lập tổ chức bộ máy chính quyền địa phương và sau đó là Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền ở các thành phố, thị xã. Theo quy định tại hai Sắc lệnh này, chính quyền địa phương gồm HĐND và UBHC (Ủy ban hành chính). Ở cấp xã và cấp tỉnh, thành phố, thị xã tổ chức chính quyền đầy đủ gồm HĐND và UBHC, ở cấp kỳ, huyện và khu phố không tổ chức HĐND mà chỉ có UBHC. Hội đồng nhân dân do Nhân dân bầu ra là cơ quan thay mặt cho Nhân dân, nhiệm kỳ của HĐND các cấp là 02 năm.

Ngày 09/11/1946 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1946). Theo quy định của Hiến pháp 1946, HĐND do Nhân dân bầu ra ở cấp tỉnh, thành phố, thị xã; ở các cấp bộ và huyện chỉ có UBHC. Do điều kiện kháng chiến chống Pháp, đến năm 1958 Quốc hội mới ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1946 về chính quyền địa phương. Lần đầu tiên Luật này xác định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nhiệm kỳ HĐND cấp tỉnh là 03 năm, các cấp khác là 02 năm. Khác với quy định trước đó, thời kỳ này không có đại biểu dự khuyết, trong nhiệm kỳ nếu đại biểu HĐND vì lý do mà không đảm nhiệm được chức vụ đại biểu, cử tri thuộc đơn vị bầu cử đã bầu ra đại biểu đó sẽ bầu người khác thay thế. Hội đồng nhân dân bầu ra UBHC cùng cấp, HĐND cấp xã bầu ra UBHC cấp huyện. Trong giai đoạn này do chưa có Thường trực HĐND nên hội nghị (kỳ họp) của HĐND do UBHC cùng cấp tiến hành triệu tập hội nghị. Mỗi kỳ họp, HĐND bầu ra Chủ tịch đoàn để điều khiển hội nghị, Chủ tịch đoàn đề cử Thư ký kỳ họp để HĐND thông qua, trong kỳ họp HĐND cũng có thể lập các Tiểu ban lâm thời để xem xét trước các dự án nghị quyết. Có thể thấy đây là sự manh nha, thai nghén trong việc thành lập các Ban của HĐND sau này.

Đến năm 1959 Quốc hội ban hành Hiến pháp mới (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1959) thay thế Hiến pháp 1946; để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1959, ngày 27/10/1962 Quốc hội ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp. Ở cấp độ Hiến pháp đây là lần đầu tiên xác định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Một điểm mới là tất cả các đơn vị hành chính đều thiết lập HĐND và UBHC; các thành phố có thể lập khu phố có HĐND và UBHC. Nhiệm kỳ HĐND cấp tỉnh vẫn là 03 năm, HĐND các cấp khác nhiệm kỳ là 02 năm. Điểm mới trong Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp năm 1962 là HĐND có nhiệm vụ, quyền hạn bầu và bãi miễn Chánh án TAND cùng cấp. Về cơ cấu tổ chức Luật này quy định tùy theo nhu cầu công tác, HĐND có thể thành lập các Ban của HĐND để giúp HĐND tìm hiểu ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân, góp ý kiến với HĐND trong xây dựng và thực hiện những chủ trương công tác ở địa phương. Thành viên của các Ban không chỉ là đại biểu HĐND mà có thể cử thêm người ngoài HĐND. Quyền hạn của đại biểu HĐND được bổ sung thêm quyền chất vấn UBHC và các cơ quan chuyên môn thuộc UBHC.

 
img 0693 1

Sau khi đất nước thống nhất, Quốc hội ban hành Hiến pháp 1980, sau đó ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983. Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983 xác định vị trí, vai trò của HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do Nhân dân địa phương bầu, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và chính quyền cấp trên. Nhiệm kỳ của HĐND cấp tỉnh được nâng lên là 04 năm. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp vừa được Luật quy định cụ thể theo từng lĩnh vực vừa quy định theo từng cấp đơn vị hành chính. Về mặt tổ chức, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 quy định việc thành lập các Ban chuyên trách là bắt buộc. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể có mấy Ban, tên gọi cũng như phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các Ban của HĐND. Cùng với việc thành lập các Ban, Luật năm 1983 quy định thành lập Ban Thư ký để giúp Chủ tịch UBND điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban chuyên trách của HĐND; tổ chức tiếp dân, đôn đốc giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân. Với các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên thấy rằng, Ban Thư ký là tổ chức tiền thân của Thường trực HĐND sau này. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 quy định lập Tổ đại biểu gồm các đại biểu được bầu ở một hoặc nhiều đơn vị bầu cử.

Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1980, ngày 30/6/1989 Quốc hội ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBND mới thay thế Luật năm 1983. Về vị trí, vai trò của HĐND không thay đổi, tuy nhiên Luật này quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND; xác định rõ hơn hai chức năng của HĐND đó là quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật. Nhiệm kỳ của HĐND tất cả các cấp đều được nâng lên là 05 năm. Về tổ chức, điểm mới của Luật này là quy định về việc thành lập và nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và Thư ký HĐND, là bộ phận hoạt động thường xuyên của HĐND để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp. Đối với HĐND cấp xã Luật quy định thành lập Ban Thư ký để giúp Chủ tịch UBND chuẩn bị, triệu tập kỳ họp, tiếp dân, đôn đốc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, giữ mối liên hệ với đại biểu.

Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, để tạo cơ sở pháp lý cho công cuộc đổi mới Quốc hội ban hành Hiến pháp năm 1992, tiếp tục khẳng định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Ngày 21/6/1994 Quốc hội ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBND thay thế Luật năm 1989. Về tổ chức, Thường trực HĐND chỉ có Chủ tịch và Phó Chủ tịch mà không còn chức danh Thư ký HĐND; Luật cũng bổ sung HĐND cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch. Trong Luật này quy định cụ thể số lượng và tên của các Ban HĐND; theo đó HĐND cấp tỉnh thành lập 03 Ban gồm: Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hóa - Xã hội, Ban Pháp chế, nơi có nhiều dân tộc có thể lập Ban Dân tộc; HĐND cấp huyện thành lập hai Ban là: Ban Kinh tế - Xã hội và Ban Pháp chế. Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND ngoài việc hướng dẫn giám sát hoạt động của HĐND cấp dưới, giám sát hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND, Luật này bổ sung thêm việc giám sát hoạt động của VKSND cùng cấp. Bỏ quy định HĐND bầu thành viên của TAND mà chỉ bầu Hội thẩm TAND. Bổ sung quy định đại biểu HĐND có quyền chất vấn đối với người đứng đầu các cơ quan như Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp.

Mặc dù Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 không có sửa đổi, bổ sung gì về chế định HĐND và UBND các cấp nhưng để tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, ngày 26/11/2003, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức HĐND và UBND thay thế Luật năm 1994. Theo Luật này vị trí, tính chất, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của HĐND cơ bản không thay đổi nhưng đã làm rõ hơn hai chức năng quyết định và giám sát. Về tổ chức, Luật quy định Chủ tịch HĐND không giữ chức vụ đó quá hai nhiệm kỳ liên tục. Về Thường trực HĐND, Luật này bổ sung Thường trực HĐND cấp xã, quy định ở cấp tỉnh, cấp huyện có chức danh Ủy viên thường trực. Về nhiệm vụ, quyền hạn, Luật này đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cấp HĐND; quy định thêm những nhiệm vụ, quyền hạn riêng của HĐND thành phố trực thuộc trung ương, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (chính quyền đô thị).

Triển khai thực hiện chủ trương đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và thể chế hóa những quy định mới của Hiến pháp năm 2013, ngày 19/6/2015, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Luật này đã kế thừa và phát triển Luật năm 2003 với những điểm mới đó là: Đã bổ sung quy định về tiêu chuẩn, số lượng đại biểu HĐND các cấp mà trước đây được quy định trong Luật Bầu cử đại biểu HĐND. Bổ sung các quy định để tăng cường vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND, bảo đảm giải quyết những vấn đề phát sinh và những hoạt động thường xuyên giữa 2 kỳ họp HĐND. Về tổ chức đã thay thế chức danh Ủy viên Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện bằng chức danh Phó Chủ tịch HĐND, như vậy ở cấp tỉnh và cấp huyện có đến 02 Phó chủ tịch HĐND (Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 thì ở cấp huyện chỉ có 01 Phó Chủ tịch HĐND). Luật đã quy định thành viên Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là Trưởng Ban của HĐND; Thường trực HĐND cấp xã gồm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND. Đối với các Ban, Luật bổ sung quy định thành lập Ban Đô thị của HĐND thành phố trực thuộc trung ương. Luật này đã quy định Trưởng Ban có thể hoạt động chuyên trách nhưng các Phó Trưởng ban phải là đại biểu hoạt động chuyên trách. Một đổi mới quan trọng nữa là Luật này đã phân tách và quy định cụ  thể về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND ở chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị.


Như vậy, có thể thấy rằng về mặt pháp lý, ngày Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 được xem là ngày thành lập HĐND các cấp. Do đó, đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét công nhận ngày truyền thống của HĐND các cấp là ngày 22/11 hằng năm, và năm 2025 sẽ là năm kỷ niệm 80 năm hình thành và phát triển của HĐND các cấp. Mặt khác, Ngày 27/10/1962 Quốc hội ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp có quy định việc thành lập các Ban HĐND, vì vậy cần thiết kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét lấy ngày 27/10 hằng năm làm ngày truyền thống của các Ban HĐND./.

Bài, ảnh: Phạm Thái Quý

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Liên kết
Thăm dò ý kiến

Dự án Dân chấm điểm M-Score mang lại lợi ích gì?

Thống kê lượt truy cập
  • Đang truy cập33
  • Hôm nay7,071
  • Tháng hiện tại291,421
  • Tổng lượt truy cập12,571,650
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây